Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 14
  1. #1
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0

    Huyền thoại, xưa và nay !!!!

    Lập cái topic ngồi bàn luận về các huyền thoại xưa và nay cái nào. Từ huyền thoại có lẽ hơi quá, nhưng SFM nghĩ có thể dùng nó để đánh giá 1 con người, dựa trên khả năng và đóng góp của họ trong/ngoài sân cỏ.

    Xin mở màn với 1 con người mà SFM cho là cầu thủ xuất sắc nhất thời đại: Zidane, 1 huyền thoại bóng đá pháp vừa mới giải nghệ




    Nhắc đến Zidane là ai cũng phải nghĩ đến 1 cầu thủ , 1 thủ lĩnh có lối chơi hào hoa, nhưng vô cùng hiệu quả , đi kèm với nó là những pha bóng và bàn thắng để đời . Thành tích ấn tượng nhất của Zizou đối với SFM là năm 1998 , khi anh cùng đồng đội vượt qua Brazil trong trận CK WC, khi đó Brazil đang sở hữu 1 dàn cầu thủ đỉnh cao phong độ, đặc biệt là người ngoài hành tinh Ronaldo . Vậy mà Zizou và đội tuyển Pháp đã vượt qua với 3 bàn không gỡ .

    Thành tích cá nhân c

    Với đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp

    * Giải vô địch bóng đá thế giới
    o Vô địch: 1998
    o Hạng nhì: 2006
    o Các lần tham dự khác: 2002
    * Giải vô địch bóng đá châu Âu
    o Vô địch: 2000
    o Các lần tham dự khác: 1996, 2004

    Với câu lạc bộ Juventus

    * Siêu cúp bóng đá châu Âu: 1996
    * Cúp bóng đá Liên lục địa: 1996
    * Vô địch bóng đá Ý: 1996/1997 và 1997/1998
    * Siêu cúp bóng đá Ý: 1997

    Với câu lạc bộ Real Madrid

    * UEFA Champions League: 2001/2002
    * Cúp bóng đá Liên lục địa: 2002
    * Vô địch bóng đá Tây Ban Nha: 2002/2003

    Các danh hiệu cá nhân

    * Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA ba năm 1998, 2000 và 2003; xếp thứ ba 1997 ; xếp thứ hai 2006
    * Quả bóng vàng châu Âu 1998; Quả bóng bạc 2000; Quả bóng đồng 1997
    * Cầu thủ xuất sắc nhất trong 50 năm của UEFA (1954-2004)
    * Cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của tạp chí World Soccer 1998
    * Cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá thế giới 2006 (giải Quả bóng vàng)


    Dường như ỏ đâu có Zidane, ở đó có danh hiệu .

    P/s : mọi người cùng lên danh sách những huyền thoại bóng đá nhé , cố gắng có thêm ảnh minh hoạ và thành tích thì quá tốt, kể cả xưa và nay.

  2. #2
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Diego Maradona
    Diego Armando Maradona (sinh 30 tháng 10 năm 1960 tại Buenos Aires) là cựu cầu thủ bóng đá Argentina. Ông từng tham dự 4 World Cup bóng đá và nhận được danh hiệu cao quý, trong đó có danh hiệu Cầu thủ của thế kỉ do khán giả trên mạng bình chọn .

    Maradona giành được nhiều danh hiệu với Boca Juniors, FC Barcelona và SSC Napoli trong sự nghiệp của mình. Ông khoác áo đội tuyển quốc gia Argentina 91 lần và ghi được 34 bàn thắng, tham dự 4 World Cup, dẫn dắt đội tuyển Argentina vô địch World Cup 1986, và giành luôn danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất ở giải đấu này. Bàn thắng thứ hai trong trận gặp Anh ở giải đấu đó, một pha dẫn bóng đến 60 mét, lừa qua 6 cầu thủ Anh, được coi là Bàn thắng của thế kỉ



    ♥♥♥
    Về phương diện cá nhân, anh đã đi tới tột đỉnh vinh quang với tư cách đội trưởng đội VĐTG 1986 và còn được tôn vinh là Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới thế kỷ 20 cùng với Pele. Tuy nhiên, thành tích vài chiếc cúp cấp CLB có vẻ là quá ít so với đẳng cấp và những cống hiến của anh.

    Lập nghiệp

    Maradona được gọi lên đội 1 Argentinos Juniors và có trận đầu tiên ở giải VĐQG ngày 20/10/1976 gặp Talleres de Córdoba, đúng 10 ngày trước khi tròn 16 tuổi. HLV Juan Carlos Montes nói khi đưa anh vào sân: “Tiến lên Diego. Hãy thể hiện những gì cậu biết”. Và Maradona đã làm được như thế. Anh bắt đầu với một pha “xỏ lỗ kim” qua khe giữa hai chân của đối thủ đầu tiên đối mặt và cứ thế say sưa trổ tài làm ảo thuật với quả bóng. Đó là cuộc đấu đầu tiên của một cuộc chinh phục cả thế giới kéo dài.

    Ở Argentinos, anh bắt đầu với cố gắng để cứu đội bóng khỏi tình thế khó khăn và kết thúc với việc tìm kiếm chức VĐ, một hình ảnh đã trở thành quen thuộc về sau này khi chơi cho các đội khác. SVĐ Boyaca & Garcia cũ nát trở thành trung tâm chú ý của cả thế giới bóng đá còn CĐV các CLB khác nô nức kéo tới để được thấy số 10 của Argentinos chơi bóng. Việc Maradona được HLV ĐTQG Cesar Luis Menotti triệu tập chuẩn bị cho trận giao hữu gặp Hungary là một bước tiến vượt bậc. Sự thật là trước khi được mặc chiếc áo sọc xanh da trời-trắng, anh mới chỉ chơi có 12 trận ở giải hạng Nhất!

    Boca, CLB mà anh ủng hộ từ bé, là nơi Maradona có được danh hiệu VĐQG đầu tiên của mình năm 1982. Những gì anh thể hiện khiến tất cả các CĐV CLB cảm giác Boca là Maradona và Maradona cũng chính là Boca.

    Maradona trong màu áo Boca
    Maradona bắt đầu có tiền, rất nhiều tiền. Mơ ước thời thơ ấu về một cuộc đổi đời cho bản thân và cho gia đình đã trở thành hiện thực. Sau này, khi đã rời sân cỏ, Maradona vẫn được xem như một huyền thoại kinh tế thế giới và sự góp mặt của anh luôn đảm bảo cho sự thành công của mọi thương vụ.

    Sau World Cup 1982 đáng thất vọng, Cesar Luis Menotti sang làm HLV Barcelona và kéo học trò Maradona theo mình. Ở Barcelona, anh đã trải qua một thời gian khó khăn. Đầu tiên là vật lộn với bệnh viêm gan và sau đó một cú tắc hiểm ác của Andoni Goikoetxea (Athletic Bilbao) ngày 24/9/1983 đã đặt sự nghiệp thi đấu của Maradona bên bờ vực. Tuy nhiên, sức mạnh thể lực và ý chí đã giúp anh trở lại sân cỏ chỉ sau 14 tuần.
    Chính tại Barcelona, Maradona đã học được nhiều từ bóng đá châu Âu. Các cầu thủ tranh cướp quyết liệt hơn và ít thể hiện kỹ thuật hơn. Maradona nhận thấy rằng với phần lớn đồng đội của anh, di chuyển còn quan trọng hơn chơi bóng. Ngược lại, các đồng nghiệp và khán giả được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bóng đá từ cái chân trái hoàn hảo của Maradona. Nhiều người nói rằng những gì anh đã làm với quả bóng ở Barcelona không bao giờ có thể lặp lại. Chẳng hạn như bàn thắng sau pha rê dắt bóng xuyên thủng toàn bộ hàng phòng ngự Real Madrid.

    Bị đẩy sang SSC Napoli, anh đã trở thành “thánh Diego” khi đưa đội bóng Italia này tới kỷ nguyên thành công nhất trong lịch sử của họ. Ngày 10/5/1987, Napoli có chức VĐQG đầu tiên còn Naples có thêm một ông thánh (Thánh Diego) ngoài vị thánh hộ mệnh San Gennaro của thành phố. Cả hai chức VĐ Italia (1987 và 1990) mà Napoli giành được trong lịch sử là nhờ có Maradona.
    Tại Naples, Maradona cũng đối mặt với những bê bối lớn nhất trong đời cầu thủ, trong đó có việc có một đứa con ngoài giá thú và bị nghi ngờ có quan hệ bạn bè với Camorra, một trùm maphia địa phương.
    World Cup 1990, chủ nhà Italia bị Argentina của Maradona loại ở bán kết. Bởi sự thật này mà Maradona chịu cơn thịnh nộ bất công của các fan Italia trong mùa bóng cuối cùng ở Italia 1990/91. Anh chơi trận cuối cùng của mình cho Napoli ngày 24/3/1991 gặp Sampdoria ở Genoa. Mẫu thử doping của Maradona cho kết quả dương tính khiến anh quyết định trốn chạy khỏi Italia mà không kịp chào tạm biệt những người hâm mộ Naples. Dù vậy, quãng thời gian ở Napoli đã trở thành đáng nhớ nhất với anh.

    Maradona trở lại sân cỏ trong màu áo FC Sevilla sau 15 tháng bị treo giò, một hình phạt quá nặng với một thiên tài hiếm có của bóng đá. Đã VĐTG với Argentina, đã ngự trị ở vị trí cao nhất trong lòng người hâm mộ khi chơi ở Italia, Maradona đã đi tới đỉnh thiên đường. Anh đã có lúc là hiện thân của Chúa Trời và giờ cố gắng để trở lại mặt đất lần nữa. Sevilla có vẻ là điểm đến hoàn hảo cho điều đó.

    Nhưng cũng chỉ sau hơn một mùa bóng, Maradona trở về quê hương chơi cho Newell's Old Boys. Anh quyết định chia tay CLB mới để tập trung sức lực khi được gọi trở lại ĐTQG. Sự nghiệp thi đấu ở CLB của Maradona bị gián đoạn do vụ doping ở World Cup 1994. Thế nhưng, anh đã chứng tỏ “sức mạnh” của mình không phụ thuộc vào tuổi tác hay trọng lượng khi trở lại chơi cho Boca Juniors từ cuối năm 1995 cho tới khi treo giày thực sự năm 1997 ở tuổi 37.

    Vô địch thế giới

    Maradona gặt hái được thành công lớn nhất là danh hiệu VĐTG với ĐT màu áo sọc trắng-xanh da trời, nơi anh chơi 91 trận và ghi 34 bàn.
    Maradona chơi trận ra mắt ĐTQG Argentina gặp Hungary ở tuổi 16. Ở tuổi 18, anh đã trở thành ngôi sao trong giải VĐ bóng đá trẻ thế giới mà Argentina là đội thắng 3–1 trong trận CK trước Liên Xô.

    World Cup 1986 là giải đấu mà những phẩm chất thiên tài của Maradona đã thăng hoa và những đóng góp của anh đã góp phần quyết định vào chức VĐ của đội bóng áo sọc xanh-trắng. Maradona thống trị giải đấu và ấn tượng từ hai bàn thắng của anh trong trận gặp ĐT Anh ở tứ kết đã củng cố hình ảnh “huyền thoại Maradona”. Pha chiếu chậm cho thấy bàn thắng đầu tiên của Maradona được ghi bằng tay dù anh đã chối khi gọi đó là “Bàn tay của Chúa”.

    Tuy nhiên, bàn thắng thứ hai của Maradona là một màn trình diễn tuyệt vời của những kỹ năng bóng đá.
    Maradona dẫn bóng suốt nửa sân, vượt qua 5 cầu thủ Anh (Glenn Hoddle, Peter Reid, Kenny Sansom, Terry Butcher và Terry Fenwick) cũng như thủ môn Peter Shilton. Bàn thắng này được bầu là Bàn thắng đẹp nhất thế kỷ 20 trong một cuộc bầu chọn qua Internet năm 2002 do FIFA tổ chức. Hai bàn thắng này được xếp hạng 6 trong danh sách 100 khoảnh khắc thể thao vĩ đại nhất của kênh truyền hình Channel 4 năm 2002
    Thành tích thi đấu ở các CLB

    CLB Số trận/Số bàn thắng

    Argentinos Juniors (1976-81) 166/116

    Boca Juniors (1981-82) 42/28

    Barcelona (1982-84) 58/38

    SSC Napoli (1984-91) 259/115

    FC Sevilla (1992-93) 29/7

    Newell's Old Boys (1993) 5/0

    Boca Juniors (1995-1997) 29/7

    Tổng cộng 588/311

    Những cột mốc trong sự nghiệp thi đấu của Maradona

    - 20/10/1976: Chơi trận đầu tiên ở giải VĐ Argentina cho Argentinos Juniors gặp Talleres de Córdoba.

    - 14/11/1976: Ghi bàn đầu tiên trong trận gặp San Lorenzo de Mar del Plata.

    - 27/2/1977: Chơi trận đầu tiên cho ĐT Argentina gặp Hungary.

    - Tháng 5/1978: Cesar Menotti, HLV ĐT Argentina, không đưa tên Maradona vào danh sách 22 cầu thủ dự World Cup 1978 với lý do anh còn quá trẻ để chịu đựng được sức ép của một giải lớn.

    - 2/6/1979: Ghi bàn đầu tiên cho ĐT Argentina trận gặp Scotland tại Glasgow

    - 7/9/1979: Cùng Argentina giành giải trẻ VĐTG ở Nhật Bản với bàn thắng từ quả đá phạt trực tiếp trong trận CK thắng Liên Xô 3-1.

    - 19/2/1981: Gia nhập Boca Juniors.

    - 16/8/1981: Giành chức VĐ Argentina với Boca Juniors.

    - 4/6/1982: Gia nhập Barcelona.

    - 24/9/1983: Chấn thương nghiêm trọng nhất trong sự nghiệp khi bị Andoni Goicoechea, hậu vệ Athletic Bilbao, đá vỡ mắt cá chân trái.

    - 30/6/1984: Gia nhập Napoli

    - 22-29/6/1986: Ghi bàn thắng nổi tiếng có tên “Bàn tay của Chúa” và sau đó ghi một bàn đẹp nhất lịch sử World Cup cho Argentina ở tứ kết World Cup 1986. Dẫn dắt Argentina tới ngôi vô địch thế giới sau khi đánh bại CHLB Đức ở trận CK.

    - 10/5/1987: Cùng Napoli giành chức VĐ Italia đầu tiên trong lịch sử CLB này

    - 17/5/1989: Cùng Napoli giành Cúp UEFA, chiếc cúp châu Âu đầu tiên trong lịch sử CLB này.

    - 17/3/1991: Bị phát hiện dương tính trong một cuộc thử doping và bị cấm thi đấu 15 tháng.

    - 10/10/1993: Rời Sevilla trở về quê hương chơi cho Newell's Old Boys.

    - 31/10/1993: Trở lại ĐTQG Argentina

    - 2/12/1993: Chơi trận cuối cùng với Newell's gặp Huracan.

    - Tháng 6/1994: Chơi hai trận trong World Cup cuối cùng và ghi một bàn thắng tuyệt vời ở trận gặp Hy Lạp trước khi bị đuổi khỏi giải vì phát hiện sử dụng chất cấm ephedrine.

    - 7/10/1995: Trở lại chơi cho Boca Juniors.

    - 25/10/1997: Chơi trận cuối cùng trong sự nghiệp (Boca thắng 2-1 trên sân River Plate).

    - 30/10/1997: Quyết định giã từ sân cỏ đúng sinh nhật lần thứ 37.

  3. #3
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Marcel ("Marco") van Basten



    sinh ngày 31 tháng 10 năm 1964 tại Oog in Al, Utrecht là một huấn luyện viên bóng đá người Hà Lan, người hiện đang giữ cương vị HLV trưởng CLB Ajax Amsterdam. Trước đây, ông là cầu thủ từng chơi cho Ajax Amsterdam và A.C. Milan trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Ông được xem là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất mọi thời đại với thành tích 276 bàn trong một sự nghiệp bị kết thúc khá ngắn ngủi do một chấn thương. Được biết đến với sức mạnh cùng trái bóng, kĩ năng chiến thuật nhạy bén cùng những cú sút và volley xuất sắc. Van Basten đã từng 3 lần dành danh hiệu quả bóng vàng Châu Âu (1988, 1989 và 1992) và một lần là cầu thủ xuất sắc nhất nhất thế giới của FIFA năm 1992. Ông được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc thứ 9 của thế kỉ 20 bởi IFFHS. Van Basten cũng được bầu ở vị trí thứ 8 trong cuộc bình bầu được tổ chức bởi tạp chí France Football do các cựu danh thủ từng dành quả bóng vàng Châu Âu bình chọn cầu thủ của thế kỉ.

    Danh hiệu

    Ajax Amsterdam

    Cúp C2 châu Âu: 1987
    Vô địch Hà Lan: 1982, 1983, 1985
    Cúp bóng đá Hà Lan: 1983, 1986, 1987

    AC Milan

    Cúp C1 châu Âu: 1989, 1990
    Cúp Liên lục địa: 1989, 1990
    Siêu Cúp châu Âu: 1989, 1990
    Vô địch Ý: 1988, 1992, 1993, 1994
    Siêu Cúp Ý: 1988, 1992, 1993

    Đội tuyển Hà Lan
    Vô địch châu Âu: 1988

    Cá nhân

    1984
    Vua phá lưới Hà Lan: (28 bàn thắng)
    Chiếc giày bạc Châu Âu: (28 bàn thắng)

    1985
    Cầu thủ hay nhất năm của Hà Lan
    Vua phá lưới giải Hà Lan: (22 bàn thắng)

    1986
    Giày vàng Châu Âu: (37 bàn thắng)
    Vua phá lưới Hà Lan: (37 bàn thắng)

    1987
    Onze d'Argent (giải bạc của tạp chí Onze Mondia, Pháp)
    Vua phá lưới Hà Lan: (31 bàn thắng)
    Bravo Award

    1988
    Vô địch Châu Âu, vua phá lưới, cầu thủ hay nhất giải: (5 bàn thắng)
    Onze d'Or (giải vàng của tạp chí Onze Mondial)
    Cầu thủ hay nhất năm do World Soccer bầu
    Quả bóng vàng Châu Âu (France Football bầu)
    Cầu thủ hay nhất thế giới do bầu IFFHS

    1989
    Vua phá lưới cúp Châu Âu: (10 bàn thắng)
    Quả bóng vàng Châu Âu (France Football bầu)
    Cây ghi bàn thứ 2 ở giải Ý: (19 bàn thắng)
    Onze d'Or (giải vàng của tạp chí Onze Mondial)
    Cầu thủ hay nhất năm của UEFA
    Cầu thủ hay nhất thế giới do bầu IFFHS

    1990
    Vua phá lưới giải Ý: (19 bàn thắng)
    Cầu thủ hay nhất năm của UEFA

    1992
    Cầu thủ hay nhất năm do World Soccer bầu
    Onze d'Argent (giải bạc của tạp chí Onze Mondial)
    Quả bóng vàng Châu Âu (France Football)
    Vua phá lưới giải Ý: (25 bàn thắng)
    Cầu thủ hay nhất năm của UEFA
    Cầu thủ hay nhất thế giới của FIFA

    1993
    Cây ghi bàn thứ 2 ở cúp Châu Âu: (6 bàn thắng)

    2004
    Có tên trong FIFA 100

  4. #4
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Vua Bóng đá PELE</font>



    Pele, tên thật Edson Arantes do Nascimento

    Sinh ngày 23/10/1940 tại Tres Coracoes, Brazil

    Cao 1,74 m

    Các CLB: Santos (1956-1974), New York Cosmos (1975-1977)

    Với ĐT Brazil (1956-1971): chơi 92 trận, ghi 77 bàn

    * Thành tích:

    Tập thể: 10 chức vô địch bang Sao Paolo (Campeonato Paulista các năm 1958, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1967, 1968, 1969 và 1973); 3 Cúp vô địch giải liên bang Rio-Sao Paolo (Torneio Rio-Sao Paulo các năm 1959, 1963 và 1964); 1 Cúp vô địch Torneio Roberto Gomes Pedrosa (còn gọi là Taca de Prata, năm 1968); 5 chức vô địch Brazil (1961, 1962, 1963, 1964 và 1965); 2 Cúp Libertadores (1962 và 1963); 2 Cúp Liên lục địa (1962 và 1963); 1 Siêu Cúp Nam Mỹ (1968); 1 chức vô địch Bắc Mỹ (NASL Champions, năm 1977); 3 Cúp Vô địch thế giới (1958, 1962, 1970); 2 Cúp Roca (1957, 1963); 1 Cúp O'Higgins (1959); 1 Cúp Atlantica (1960).

    Cá nhân: Cầu thủ xuất sắc nhất Nam Mỹ năm 1973; VĐV xuất sắc nhất thế kỷ 20 của Uỷ ban Olympic Quốc tế; Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20 của FIFA (chung với Diego Maradona); Giải thưởng thành tựu trọn đời (Laureus World Sports Awards) của Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela năm 2000; Giải thưởng thanh tựu trọn đời dành cho Nhân vật thể thao của hãng truyền thông BBC tặng năm 2005.

    Những vinh dự khác: Đại sứ sinh thái và môi trường Liên Hợp Quốc năm 1992; Đại sứ Thiện chí của UNESCO năm 1995; Tước hiệu Hiệp sĩ Anh quốc (KBE - tước hiệu cao quý thứ hai trong 5 hạng hiệp sĩ của Anh) năm 1997.


    Không chỉ là vua bóng đá

    Sự nghiệp của cựu danh thủ Brazil này tràn ngập những vinh quang, những bàn thắng và điều quan trọng hơn cả là mỗi trận đấu của ông là một bữa tiệc bóng đá dành cho khán giả.

    Ở Brazil, Pele là một người hùng dân tộc. Ông được tôn vinh vì những thành tích và cống hiến cho môn thể thao này. Ông được chính phủ Brazil coi là tài sản quốc gia vì đã làm rạng danh đất nước. Pele cũng nổi tiếng với vai trò một nhà hoạt động xã hội khi lên tiếng bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với các chính sách cần phải thực hiện để cải thiện điều kiện an sinh xã hội cho người nghèo. Khi ghi bàn thứ 1.000 trong sự nghiệp, ông đã nói rằng đó là món quà tặng cho trẻ em nghèo Brazil.

    Được phát hiện bởi ngôi sao bóng đá Waldemar de Brito, Pele bắt đầu chơi cho CLB bóng đá Santos khi 15 tuổi, được vào ĐTQG năm 16 tuổi và giành được Cúp VĐTG đầu tiên của mình ở tuổi 17. Bất chấp vô số đề nghị của các CLB châu Âu, ông đã ở lại với CLB của mình và chơi ở đó gần hai thập kỷ cho tới khi gần treo giầy mới sang Mỹ để thi đấu hai năm cuối với sứ mạng khai hóa bóng đá Bắc Mỹ.



    Pele chơi ở các vị trí tiền đạo lùi, trung phong và cuối sự nghiệp là tiền vệ kiến thiết bóng. Kỹ thuật siêu hạng và thể lực thiên phú của Pele đã được cả thế giới ca ngợi. Ông nổi tiếng với kỹ năng rê dắt bóng không thể ngăn chặn nổi, những đường chuyền khôn ngoan, tốc độ, khả năng sút bóng uy lực và đánh đầu giỏi hiếm có với một tiền đạo Nam Mỹ lại có chiều cao khiêm tốn. Nhưng ấn tượng chung mà ông để lại chính là khả năng săn bàn xuất sắc.
    Ông là cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất lịch sử ĐTQG Brazil và là cầu thủ duy nhất có mặt trong thành phần 3 đội bóng giành World Cup (riêng World Cup 1962, Pele cũng có tên trong danh sách đội hình Brazil nhưng không thi đấu vì chấn thương và không được nhận huy chương).

    Từ khi giã từ sự nghiệp thi đấu vào năm 1977, Pele trở thành đại sứ của bóng đá thế giới khi tham dự vào rất nhiều sự kiện bóng đá và không ngại đưa ra quan điểm về các vấn đề nổi cộm. Ngoài bóng đá, ông cũng tham gia vào các dự án kinh doanh và cũng đã có một thời gian đảm nhận cương vị Bộ trưởng Thể thao Brazil.

    +<font color="DarkRed">Biệt danh Pele


    Pele sinh ra ở thị trấn nghèo Tres Coracoes, bên những rặng núi ở miền duyên hải Brazil. Ông là con trai của một cầu thủ bóng đá Fluminense có biệt danh Dondinho (tên khai sinh là Joao Ramos do Bojang) và vợ Celeste.

    Tên của Pele được ông bố đặt theo tên nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison. Ban đầu ông được gia đình đặt biệt danh Dico và biệt danh vẫn chưa có "Pele" cho tới khi đi học. Biệt danh đó bắt nguồn từ việc ông phát âm tên cầu thủ mà ông yêu thích Bile, thủ môn của đội bóng địa phương Vasco da Gama, chệch thành "Pile". Và thế là các bạn học đặt luôn cho cái tên Pele để trêu trọc ông.

    Ban đầu Pele không thích biệt danh này, thậm chí đã bị kỷ luật đuổi học do đấm bạn cùng lớp đã gọi mình như thế. Thế nhưng, càng phản ứng thì cái tên đó càng gắn chặt. Sau này, Pele cũng nhấn mạnh rằng ông và cả các bạn học cũ đều không hiểu cái tên đó có nghĩa gì ngoài việc nó xuất phát từ Bile, một từ chẳng hề có nghĩa gì.“Dường như Thượng đế đã đưa tôi tới Trái Đất với sứ mệnh chơi bóng”
    - Pele -

    Lớn lên trong nghèo khổ ở Bauru, Sao Paulo, Pele phải phụ giúp gia đình bằng cách kiếm tiền nhờ nghề đánh giầy, đặc biệt là trong những ngày ở CLB Bauru có trận đấu.

    Pele bắt đầu học kỹ năng chơi bóng từ ông bố, người đã có sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp ở Atletico Mineiro kết thúc trong ác mộng do chấn thương đầu gối. Không có nổi một quả bóng tử tế, Pele tập chơi bóng với "quả bóng" đặc biệt là một chiếc tất được nhồi giấy báo vào trong và buộc túm lại hoặc một quả bưởi.




    Đội bóng đầu tiên của Pele được gọi là "đội không giầy" được lập bởi chính ông và các cậu bé khác từ phố Sete de Setembro và Rubens Arruda. Khi họ dự một giải đấu địa phương được tổ chức bởi thị trưởng Bauru mà theo quy định phải có giầy thi đấu, họ không còn đi chân đất nữa và cũng đổi tên thành Ameriquinha.
    Ameriquinha vào tới trận chung kết tại sân BAC và giành chiến thắng trước sự chứng kiến của hàng nghìn khán giả. Riêng Pele đã kết thúc giải với danh hiệu vua phá lưới.

    Pele được Waldemar de Brito, cựu tuyển thủ Brazil từng tham dự World Cup 1934 ở Italia, chú ý. Năm 1954, vài cầu thủ của Ameriquinha, trong đó có Pele, đã được mời gia nhập đội bóng thiếu niên Baquinho do De Brito huấn luyện. Lần đầu tiên, Pele được trả tiền để chơi bóng. Đội bóng đã giành được chức VĐ giải bóng đá trẻ 1954 được tổ chức bởi các tờ báo Diario de Bauru và Sao Paulo Sporting Gazette với đóng góp lớn của Pele (ghi 148 bàn trong 33 trận).

    15 tuổi rưỡi, Pele được De Brito đưa tới Sao Paulo để gia nhập FC Santos với lời giới thiệu vô cùng ấn tượng đã gây kinh ngạc các vị lãnh đạo CLB này: “Cậu bé này sẽ là cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất thế giới”..

    trích từ *********

  5. #5
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Vua Bóng đá PELE</font>



    Pele, tên thật Edson Arantes do Nascimento

    Sinh ngày 23/10/1940 tại Tres Coracoes, Brazil

    Cao 1,74 m

    Các CLB: Santos (1956-1974), New York Cosmos (1975-1977)

    Với ĐT Brazil (1956-1971): chơi 92 trận, ghi 77 bàn

    * Thành tích:

    Tập thể: 10 chức vô địch bang Sao Paolo (Campeonato Paulista các năm 1958, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1967, 1968, 1969 và 1973); 3 Cúp vô địch giải liên bang Rio-Sao Paolo (Torneio Rio-Sao Paulo các năm 1959, 1963 và 1964); 1 Cúp vô địch Torneio Roberto Gomes Pedrosa (còn gọi là Taca de Prata, năm 1968); 5 chức vô địch Brazil (1961, 1962, 1963, 1964 và 1965); 2 Cúp Libertadores (1962 và 1963); 2 Cúp Liên lục địa (1962 và 1963); 1 Siêu Cúp Nam Mỹ (1968); 1 chức vô địch Bắc Mỹ (NASL Champions, năm 1977); 3 Cúp Vô địch thế giới (1958, 1962, 1970); 2 Cúp Roca (1957, 1963); 1 Cúp O'Higgins (1959); 1 Cúp Atlantica (1960).

    Cá nhân: Cầu thủ xuất sắc nhất Nam Mỹ năm 1973; VĐV xuất sắc nhất thế kỷ 20 của Uỷ ban Olympic Quốc tế; Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20 của FIFA (chung với Diego Maradona); Giải thưởng thành tựu trọn đời (Laureus World Sports Awards) của Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela năm 2000; Giải thưởng thanh tựu trọn đời dành cho Nhân vật thể thao của hãng truyền thông BBC tặng năm 2005.

    Những vinh dự khác: Đại sứ sinh thái và môi trường Liên Hợp Quốc năm 1992; Đại sứ Thiện chí của UNESCO năm 1995; Tước hiệu Hiệp sĩ Anh quốc (KBE - tước hiệu cao quý thứ hai trong 5 hạng hiệp sĩ của Anh) năm 1997.


    Không chỉ là vua bóng đá

    Sự nghiệp của cựu danh thủ Brazil này tràn ngập những vinh quang, những bàn thắng và điều quan trọng hơn cả là mỗi trận đấu của ông là một bữa tiệc bóng đá dành cho khán giả.

    Ở Brazil, Pele là một người hùng dân tộc. Ông được tôn vinh vì những thành tích và cống hiến cho môn thể thao này. Ông được chính phủ Brazil coi là tài sản quốc gia vì đã làm rạng danh đất nước. Pele cũng nổi tiếng với vai trò một nhà hoạt động xã hội khi lên tiếng bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với các chính sách cần phải thực hiện để cải thiện điều kiện an sinh xã hội cho người nghèo. Khi ghi bàn thứ 1.000 trong sự nghiệp, ông đã nói rằng đó là món quà tặng cho trẻ em nghèo Brazil.

    Được phát hiện bởi ngôi sao bóng đá Waldemar de Brito, Pele bắt đầu chơi cho CLB bóng đá Santos khi 15 tuổi, được vào ĐTQG năm 16 tuổi và giành được Cúp VĐTG đầu tiên của mình ở tuổi 17. Bất chấp vô số đề nghị của các CLB châu Âu, ông đã ở lại với CLB của mình và chơi ở đó gần hai thập kỷ cho tới khi gần treo giầy mới sang Mỹ để thi đấu hai năm cuối với sứ mạng khai hóa bóng đá Bắc Mỹ.



    Pele chơi ở các vị trí tiền đạo lùi, trung phong và cuối sự nghiệp là tiền vệ kiến thiết bóng. Kỹ thuật siêu hạng và thể lực thiên phú của Pele đã được cả thế giới ca ngợi. Ông nổi tiếng với kỹ năng rê dắt bóng không thể ngăn chặn nổi, những đường chuyền khôn ngoan, tốc độ, khả năng sút bóng uy lực và đánh đầu giỏi hiếm có với một tiền đạo Nam Mỹ lại có chiều cao khiêm tốn. Nhưng ấn tượng chung mà ông để lại chính là khả năng săn bàn xuất sắc.
    Ông là cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất lịch sử ĐTQG Brazil và là cầu thủ duy nhất có mặt trong thành phần 3 đội bóng giành World Cup (riêng World Cup 1962, Pele cũng có tên trong danh sách đội hình Brazil nhưng không thi đấu vì chấn thương và không được nhận huy chương).

    Từ khi giã từ sự nghiệp thi đấu vào năm 1977, Pele trở thành đại sứ của bóng đá thế giới khi tham dự vào rất nhiều sự kiện bóng đá và không ngại đưa ra quan điểm về các vấn đề nổi cộm. Ngoài bóng đá, ông cũng tham gia vào các dự án kinh doanh và cũng đã có một thời gian đảm nhận cương vị Bộ trưởng Thể thao Brazil.

    +<font color="DarkRed">Biệt danh Pele


    Pele sinh ra ở thị trấn nghèo Tres Coracoes, bên những rặng núi ở miền duyên hải Brazil. Ông là con trai của một cầu thủ bóng đá Fluminense có biệt danh Dondinho (tên khai sinh là Joao Ramos do Bojang) và vợ Celeste.

    Tên của Pele được ông bố đặt theo tên nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison. Ban đầu ông được gia đình đặt biệt danh Dico và biệt danh vẫn chưa có "Pele" cho tới khi đi học. Biệt danh đó bắt nguồn từ việc ông phát âm tên cầu thủ mà ông yêu thích Bile, thủ môn của đội bóng địa phương Vasco da Gama, chệch thành "Pile". Và thế là các bạn học đặt luôn cho cái tên Pele để trêu trọc ông.

    Ban đầu Pele không thích biệt danh này, thậm chí đã bị kỷ luật đuổi học do đấm bạn cùng lớp đã gọi mình như thế. Thế nhưng, càng phản ứng thì cái tên đó càng gắn chặt. Sau này, Pele cũng nhấn mạnh rằng ông và cả các bạn học cũ đều không hiểu cái tên đó có nghĩa gì ngoài việc nó xuất phát từ Bile, một từ chẳng hề có nghĩa gì.“Dường như Thượng đế đã đưa tôi tới Trái Đất với sứ mệnh chơi bóng”
    - Pele -

    Lớn lên trong nghèo khổ ở Bauru, Sao Paulo, Pele phải phụ giúp gia đình bằng cách kiếm tiền nhờ nghề đánh giầy, đặc biệt là trong những ngày ở CLB Bauru có trận đấu.

    Pele bắt đầu học kỹ năng chơi bóng từ ông bố, người đã có sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp ở Atletico Mineiro kết thúc trong ác mộng do chấn thương đầu gối. Không có nổi một quả bóng tử tế, Pele tập chơi bóng với "quả bóng" đặc biệt là một chiếc tất được nhồi giấy báo vào trong và buộc túm lại hoặc một quả bưởi.




    Đội bóng đầu tiên của Pele được gọi là "đội không giầy" được lập bởi chính ông và các cậu bé khác từ phố Sete de Setembro và Rubens Arruda. Khi họ dự một giải đấu địa phương được tổ chức bởi thị trưởng Bauru mà theo quy định phải có giầy thi đấu, họ không còn đi chân đất nữa và cũng đổi tên thành Ameriquinha.
    Ameriquinha vào tới trận chung kết tại sân BAC và giành chiến thắng trước sự chứng kiến của hàng nghìn khán giả. Riêng Pele đã kết thúc giải với danh hiệu vua phá lưới.

    Pele được Waldemar de Brito, cựu tuyển thủ Brazil từng tham dự World Cup 1934 ở Italia, chú ý. Năm 1954, vài cầu thủ của Ameriquinha, trong đó có Pele, đã được mời gia nhập đội bóng thiếu niên Baquinho do De Brito huấn luyện. Lần đầu tiên, Pele được trả tiền để chơi bóng. Đội bóng đã giành được chức VĐ giải bóng đá trẻ 1954 được tổ chức bởi các tờ báo Diario de Bauru và Sao Paulo Sporting Gazette với đóng góp lớn của Pele (ghi 148 bàn trong 33 trận).

    15 tuổi rưỡi, Pele được De Brito đưa tới Sao Paulo để gia nhập FC Santos với lời giới thiệu vô cùng ấn tượng đã gây kinh ngạc các vị lãnh đạo CLB này: “Cậu bé này sẽ là cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất thế giới”..

    trích từ *********

  6. #6
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    Marcello Lippi


    Tên đầy đủ Marcello Lippi
    Ngày sinh 11 tháng 4, 1948 (60 tuổi)
    Nơi sinh Viareggio, Ý
    Chiều cao 1.73 mét
    Huấn luyện viên (cựu Tiền vệ)

    Từng là cầu thủ và hiện là huấn luyện viên người Ý. Sinh ra tại Viareggio phía bắc Toscana, ông là huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Ý từ 16 tháng 7 năm 2004 đến 12 tháng 7 năm 2006. Ông đã dẫn dắt đội tuyển Ý giành cup vô địch thế giới năm 2006. Sau khi giành được vinh quang cùng đội tuyển ông đã từ chức vì đã đạt được điều ông mong muốn.


    Sự nghiệp cầu thủ
    Ông chơi bóng chuyên nghiệp từ năm 1969 với vài trò là một tiền vệ. Ông giành hầu hết sự nghiệp của mình ở câu lạc bộ U.C. Sampdoria từ 1969-1980. Năm 1980 ông chuyển tới chơi cho A.C. Pistoiese và kết thúc sự nghiệp ở câu lạc bộ này.


    Sự nghiệp huấn luyện
    Sự nghiệp HLV
    1982-1985 Sampdoria (đội trẻ)
    1985-1986 Pontedera
    1986-1987 Siena
    1987-1988 Pistoiese
    1988-1989 Carrarese
    1989-1991 Cesena
    1991-1992 Lucchese
    1992-1993 Atalanta
    1993-1994 Napoli
    1994-1999 Juventus
    1999-2000 Inter Milan
    2001-2004 Juventus
    2004-2006 Ý

    Thành tích
    Juventus
    Vô địch Serie A (5): 1995, 1997, 1998, 2002, 2003
    Cup Ý (1): 1995
    Siêu cup Ý (4):1995, 1997, 2002, 2003
    C1 (1): 1996 ,hạng 2 (3):1997, 1998, 2003
    Siêu cup châu Âu (1):1996
    Cup liên lục địa (1): 1996
    Cup C2: Hạng 2 (1): 1995
    Inter Milan
    Cup Ý - hạng 2: 2000
    Đội tuyển Ý
    World Cup (1): 2006
    Cá nhân
    Huấn luyện viên hay nhât Serie A: 1997, 1998, 2003
    Huấn luyện viên đội tuyển hay nhất thế giới theo IFFHS 2006
    Huấn luyện viên câu lạc bộ hay nhất thế giới theo IFFHS 1996, 1998
    Huấn luyện viên của năm (theo tạp chí Onze) 2007

  7. #7
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Marcello Lippi


    Tên đầy đủ Marcello Lippi
    Ngày sinh 11 tháng 4, 1948 (60 tuổi)
    Nơi sinh Viareggio, Ý
    Chiều cao 1.73 mét
    Huấn luyện viên (cựu Tiền vệ)

    Từng là cầu thủ và hiện là huấn luyện viên người Ý. Sinh ra tại Viareggio phía bắc Toscana, ông là huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Ý từ 16 tháng 7 năm 2004 đến 12 tháng 7 năm 2006. Ông đã dẫn dắt đội tuyển Ý giành cup vô địch thế giới năm 2006. Sau khi giành được vinh quang cùng đội tuyển ông đã từ chức vì đã đạt được điều ông mong muốn.


    Sự nghiệp cầu thủ
    Ông chơi bóng chuyên nghiệp từ năm 1969 với vài trò là một tiền vệ. Ông giành hầu hết sự nghiệp của mình ở câu lạc bộ U.C. Sampdoria từ 1969-1980. Năm 1980 ông chuyển tới chơi cho A.C. Pistoiese và kết thúc sự nghiệp ở câu lạc bộ này.


    Sự nghiệp huấn luyện
    Sự nghiệp HLV
    1982-1985 Sampdoria (đội trẻ)
    1985-1986 Pontedera
    1986-1987 Siena
    1987-1988 Pistoiese
    1988-1989 Carrarese
    1989-1991 Cesena
    1991-1992 Lucchese
    1992-1993 Atalanta
    1993-1994 Napoli
    1994-1999 Juventus
    1999-2000 Inter Milan
    2001-2004 Juventus
    2004-2006 Ý

    Thành tích
    Juventus
    Vô địch Serie A (5): 1995, 1997, 1998, 2002, 2003
    Cup Ý (1): 1995
    Siêu cup Ý (4):1995, 1997, 2002, 2003
    C1 (1): 1996 ,hạng 2 (3):1997, 1998, 2003
    Siêu cup châu Âu (1):1996
    Cup liên lục địa (1): 1996
    Cup C2: Hạng 2 (1): 1995
    Inter Milan
    Cup Ý - hạng 2: 2000
    Đội tuyển Ý
    World Cup (1): 2006
    Cá nhân
    Huấn luyện viên hay nhât Serie A: 1997, 1998, 2003
    Huấn luyện viên đội tuyển hay nhất thế giới theo IFFHS 2006
    Huấn luyện viên câu lạc bộ hay nhất thế giới theo IFFHS 1996, 1998
    Huấn luyện viên của năm (theo tạp chí Onze) 2007

  8. #8
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    2
    Xin phép được tiếp theo với Ronaldo - người ngoài hành tinh .

    Ronaldo Luis Nazário de Lima sinh 18 tháng 9 năm 1976 tại Rio de Janeiro), thường được biết với tên Ronaldo, là một cầu thủ bóng đá người Brasil. Hiện anh là cầu thủ tự do sau khi chấm dứt hợp đồng với câu lạc bộ Ý A.C. Milan. Ronaldo có biệt danh là "Người ngoài hành tinh" . Vua bóng đá Pelé đã xếp Ronaldo vào danh sách 125 cầu thủ còn sống xuất sắc nhất tháng 3 năm 2004. Năm 1999, tạp chí World Soccer xếp anh đứng hạng 9 trong danh sách 100 cầu thủ hay nhất thế kỉ 20. Năm 2007 tạp chí France Football đã bầu anh vào đội hình 11 cầu thủ giỏi nhất mọi thời đại.

    Ở vị trí tiền đạo, Ronaldo có được nhiều thành công trên đấu trường quốc tế: vô địch World Cup 1994 và World Cup 2002 cùng đội tuyển Brasil. Với 15 bàn thắng qua 3 kì World Cup, Ronaldo đang giữ kỉ lục ghi bàn tại đấu trường bóng đá lớn nhất này. Anh cùng với Zinedine Zidane là hai cầu thủ có nhiều danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA nhất với 3 lần (Ronaldo được giải này vào các năm 1996, 1997 và 2002). Anh cũng có 2 Quả bóng vàng châu Âu trong bộ sưu tập giải thưởng cá nhân của mình.

    Hình ảnh cuối cùng của Ronaldo gần đây trong màu áo Milan



    Danh hiệu cá nhân
    Cho đến nay, Ronaldo vẫn là cầu thủ trẻ nhất từng đoạt danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu
    Cho đến nay, Ronaldo vẫn là cầu thủ trẻ nhất từng đoạt danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu

    * Vua phá lưới World Cup 2002
    * Giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA do các huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia bầu chọn các năm 1996 (trẻ nhất), 1997, 2002, Á quân giải này năm 1998, hạng 3 giải này năm 2003
    * Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới các năm: 1996, 1997, 2002
    * Giải Quả bóng vàng châu Âu do các phóng viên thể thao châu Âu bầu chọn các năm 1997, 2002
    * Bóng Onze: 1997, 2002
    * Cầu thủ xuất sắc nhất UEFA: 1998
    * Chiếc giày vàng châu Âu: 1997
    * Vua phá lưới Copa America 1997
    * Vua phá lưới La Liga: 1996-1997, 2003-2004
    * Vua phá lưới giải vô địch Hà Lan: 1994-1995
    * Cầu thủ trong năm: 2002
    * Chiếc giày vàng: 2006

    [sửa] Tại World Cup

    * Cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong các kỳ World Cup: 15 bàn sau 19 trận, 3 kỳ.
    * 2006: Chiếc giày đồng (3 bàn thắng, 1 đường chuyền quyết định)
    * 2002: Vua phá lưới (8 bàn thắng)
    * 2002: Quả bóng bạc
    * 2002: Đoạt chức vô địch
    * 1998: Quả bóng Vàng
    * 1998: Chiếc giày đồng (4 bàn thắng, 4 đường chuyền quyết định)
    * 1994: Đoạt chức vô địch (trong đội hình dự bị)

    [sửa] Tại Cúp châu lục và quốc gia

    * Brazilian Cup: Cruzeiro 1993
    * Dutch Cup: PSV Eindhoven 1996
    * Cup Winners' Cup: FC Barcelona 1997
    * Confederations Cup: 1997
    * Copa América: 1997, 1999
    * UEFA Cup: Internazionale 1998
    * Intercontinental Cup: Real Madrid 2002
    * European Super Cup: Real Madrid 2002
    * La Liga - Primera División champions: Real Madrid 2002/2003
    * Spanish Super Cup: FC Barcelona 1996, Real Madrid 2003

  9. #9
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Xin phép được tiếp theo với Ronaldo - người ngoài hành tinh .

    Ronaldo Luis Nazário de Lima sinh 18 tháng 9 năm 1976 tại Rio de Janeiro), thường được biết với tên Ronaldo, là một cầu thủ bóng đá người Brasil. Hiện anh là cầu thủ tự do sau khi chấm dứt hợp đồng với câu lạc bộ Ý A.C. Milan. Ronaldo có biệt danh là "Người ngoài hành tinh" . Vua bóng đá Pelé đã xếp Ronaldo vào danh sách 125 cầu thủ còn sống xuất sắc nhất tháng 3 năm 2004. Năm 1999, tạp chí World Soccer xếp anh đứng hạng 9 trong danh sách 100 cầu thủ hay nhất thế kỉ 20. Năm 2007 tạp chí France Football đã bầu anh vào đội hình 11 cầu thủ giỏi nhất mọi thời đại.

    Ở vị trí tiền đạo, Ronaldo có được nhiều thành công trên đấu trường quốc tế: vô địch World Cup 1994 và World Cup 2002 cùng đội tuyển Brasil. Với 15 bàn thắng qua 3 kì World Cup, Ronaldo đang giữ kỉ lục ghi bàn tại đấu trường bóng đá lớn nhất này. Anh cùng với Zinedine Zidane là hai cầu thủ có nhiều danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA nhất với 3 lần (Ronaldo được giải này vào các năm 1996, 1997 và 2002). Anh cũng có 2 Quả bóng vàng châu Âu trong bộ sưu tập giải thưởng cá nhân của mình.

    Hình ảnh cuối cùng của Ronaldo gần đây trong màu áo Milan



    Danh hiệu cá nhân
    Cho đến nay, Ronaldo vẫn là cầu thủ trẻ nhất từng đoạt danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu
    Cho đến nay, Ronaldo vẫn là cầu thủ trẻ nhất từng đoạt danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu

    * Vua phá lưới World Cup 2002
    * Giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA do các huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia bầu chọn các năm 1996 (trẻ nhất), 1997, 2002, Á quân giải này năm 1998, hạng 3 giải này năm 2003
    * Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới các năm: 1996, 1997, 2002
    * Giải Quả bóng vàng châu Âu do các phóng viên thể thao châu Âu bầu chọn các năm 1997, 2002
    * Bóng Onze: 1997, 2002
    * Cầu thủ xuất sắc nhất UEFA: 1998
    * Chiếc giày vàng châu Âu: 1997
    * Vua phá lưới Copa America 1997
    * Vua phá lưới La Liga: 1996-1997, 2003-2004
    * Vua phá lưới giải vô địch Hà Lan: 1994-1995
    * Cầu thủ trong năm: 2002
    * Chiếc giày vàng: 2006

    [sửa] Tại World Cup

    * Cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong các kỳ World Cup: 15 bàn sau 19 trận, 3 kỳ.
    * 2006: Chiếc giày đồng (3 bàn thắng, 1 đường chuyền quyết định)
    * 2002: Vua phá lưới (8 bàn thắng)
    * 2002: Quả bóng bạc
    * 2002: Đoạt chức vô địch
    * 1998: Quả bóng Vàng
    * 1998: Chiếc giày đồng (4 bàn thắng, 4 đường chuyền quyết định)
    * 1994: Đoạt chức vô địch (trong đội hình dự bị)

    [sửa] Tại Cúp châu lục và quốc gia

    * Brazilian Cup: Cruzeiro 1993
    * Dutch Cup: PSV Eindhoven 1996
    * Cup Winners' Cup: FC Barcelona 1997
    * Confederations Cup: 1997
    * Copa América: 1997, 1999
    * UEFA Cup: Internazionale 1998
    * Intercontinental Cup: Real Madrid 2002
    * European Super Cup: Real Madrid 2002
    * La Liga - Primera División champions: Real Madrid 2002/2003
    * Spanish Super Cup: FC Barcelona 1996, Real Madrid 2003

  10. #10
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Có thể nói con đường đi của chàng trai này luôn trải đầy hoa gấm , anh không gặp chút mảy may rủi ro nào trong sự nghiệp cũng như cuộc đời của mình. Sinh ra tại Valez-Malaga vào ngày 23/3/1968 với tên đầy đủ là Fernando Ruiz Hierro . Gia nhập CLB Valladolid và chơi chính thức cho CLB này trong 2 mùa bóng 87-88 và 88-89 anh đã có 58 lần ra sân và nổi lên là một hậu vệ thép , nỗi khiếp sợ của các tiền đạo khi đối mặt với anh . Với thành tích này anh lọt vào mắt xanh của đội bóng hoàng gia Real Madrid và anh được CLB này đem về vào mùa bóng 1989-1990 , bắt đầu từ lúc này cái tên Hierro bắt đầu được chú ý nhiều hơn trước.
    Mùa bóng đầu tiên ở đội bóng mới anh thi đấu khá thành công và ghi được cho RM 7 bàn thắng từ những pha lên tham gia tấn công và giúp Real Madrid vươn lên vị trí số một giải vô địch quốc gia TBN. Mùa giải tiếp theo sự vững chắc trong phòng ngự và hiệu quả trong tấn công đã làm BHL của "Những con kền kền trắng" đặt ra câu hỏi : "Liệu để anh ta đá ở vị trí hậu vệ là tốt nhất chưa nhỉ ?" , mùa bóng 1991 - 1992 anh được xếp đá ở vị trí tiền vệ phòng ngự và bằng khả năng tổ chức phòng ngự từ xa , tấn công hoàn hảo qua những cú đá phạt và những đường chuyền khéo léo , thông minh anh giúp Real giành vị trí á quân và anh ghi được cho Real 21 bàn thắng , một con số khiến các tiền đạo cũng phải mơ ước.Mùa bóng 1992-1993 anh cùng Real giữ vững vị trí thứ hai và đoạt được Cúp nhà vua Tây Ban Nha.Cứ thế , với sức mạnh và kỹ thuật vốn có anh cứ đều đều ra sân , đều đều ghi bàn .Trở lại với vị trí hậu vệ quen thuộc vào mùa bóng 1994-95 anh cùng Real có chức vô địch quốc gia TBN lần thứ hai.
    Mùa bóng 1996-97 là mùa bóng anh đạt đỉnh cao của phong độ và tích luỹ được vô số kinh nghiệm , anh lại cùng Real Madrid bước lên bục nhận chức vô địch TBN .Mùa bóng kế tiếp tuy Real Madrid kết thúc với vị trí thứ 4 trong giải vô địch TBN nhưng anh cùng Real Madrid lại nhận được cúp vô địch châu âu , phần thưởng danh giá nhất mà một cầu thủ bóng đá được nhận.
    Qua một thời gian dài chơi bóng cống hiến cho RM , người thủ lĩnh sân Bernabeu này giã từ bóng đá đỉnh cao ở tuồi 36 và ký hợp đồng với 1 CLB của xứ sở dầu mỏ Quatar , CLB Al Rayyan.Tại đây tuy không còn đạt đỉnh cao phong độ và sức khoẻ nhưng kinh nghiệm của Hierro cũng giúp cho những trận cầu của Al Rayyan thêm phần hào hứng.Anh kết thúc sự nghiệp với 89 lần khoác áo đội tuyển và 29 bàn thắng cho "Xứ sở bó tót".
    Ngày nay , anh không còn ở trong đội bóng Real Madrid nhưng các cổ động viên Real khi nhắc về anh luôn nhắc với một vẻ kính trong vì những gì anh đã làm cho đội bóng . Chắc chắn trong trang sách lịch sử về thành công của Real Madrid không thể thiếu cái tên Fernando Hierro.:189:

 

 
Trang 1 của 2 12 CuốiCuối

Các Chủ đề tương tự

  1. Sự trở của các huyền thoại bóng đá
    Bởi hungtk15122010 trong diễn đàn FM 2011 Download
    Trả lời: 49
    Bài viết cuối: 09-19-2011, 07:01 PM
  2. Trả lời: 18
    Bài viết cuối: 07-16-2011, 05:34 PM
  3. Sự trở lại của 50 huyền thoại
    Bởi thuha.dnv trong diễn đàn FM 2011 Download
    Trả lời: 88
    Bài viết cuối: 04-19-2011, 04:40 PM
  4. Các huyền thoại của bóng đá Hà Lan
    Bởi kettrinh trong diễn đàn Ngôi nhà của những huyền thoại
    Trả lời: 2
    Bài viết cuối: 02-18-2009, 07:14 PM
  5. Các huyền thoại của bóng đá châu Âu (khác)
    Bởi BichNgoc101 trong diễn đàn Ngôi nhà của những huyền thoại
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 12-25-2008, 10:02 AM

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
Múi giờ GMT +7. Bây giờ là 09:14 PM.
Diễn đàn sử dụng vBulletin® Phiên bản 4.2.5.
Bản quyền của 2024 vBulletin Solutions, Inc. Tất cả quyền được bảo lưu.
Ban quản trị không chịu trách nhiệm về nội dung do thành viên đăng.